Ngăn ngừa ung thư vú

Phòng ngừa ung thư mô tả bất kỳ hành động nào được thực hiện để giảm nguy cơ phát triển ung thư. 

- Ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến nhất ở Anh, với khoảng 48.000 trường hợp mới được chẩn đoán ở phụ nữ ở Anh mỗi năm. Tại Hoa Kỳ, ung thư vú là loại ung thư phổ biến thứ hai sau ung thư da, và là nguyên nhân gây tử vong thứ hai sau ung thư phổi. Phần lớn (khoảng 80%) những người phát triển ung thư vú trên 50 tuổi, mặc dù phụ nữ trẻ hơn và trong những trường hợp hiếm hoi, ngay cả nam giới cũng có thể phát triển tình trạng này.


Phòng ngừa
- Phòng ngừa ung thư mô tả bất kỳ hành động nào được thực hiện để giảm nguy cơ phát triển ung thư. Mặc dù không thể thực hiện hành động chống lại một số yếu tố nguy cơ như tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú, nhưng các yếu tố khác, chẳng hạn như thói quen lối sống, có thể được sửa đổi để giảm nguy cơ đáng kể. Một số nghiên cứu đã chỉ ra trường hợp này ngay cả ở những người có nguy cơ cao .
Thay đổi lối sống
Một số thay đổi lối sống mà một cá nhân có thể áp dụng để giúp giảm nguy cơ phát triển ung thư vú bao gồm:
Hạn chế rượu
- Một cá nhân uống càng nhiều rượu, càng có nhiều nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Đồ uống như bia, rượu và rượu nên được giới hạn không quá một ly một ngày.
Ngừng hút thuốc
- Số lượng nghiên cứu ngày càng tăng đã chỉ ra mối liên quan giữa hút thuốc và ung thư vú, đặc biệt là ở những phụ nữ chưa trải qua thời kỳ mãn kinh.
Kiểm soát cân nặng
- Thừa cân hoặc béo phì làm tăng nguy cơ ung thư vú, đặc biệt là sau này trong cuộc sống và đặc biệt là sau thời kỳ mãn kinh. Thừa cân hoặc béo phì có thể làm tăng nồng độ estrogen, do đó có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú.
Hoạt động thể chất
- Hoạt động thể chất có thể giúp duy trì cân nặng hợp lý và do đó giảm nguy cơ ung thư vú. Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng hoạt động thể chất vừa phải đến mạnh có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư vú 3 .
Cho con bú
- Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những phụ nữ chọn cho con bú ít có nguy cơ bị ung thư vú hơn những người không chọn. Cơ chế đằng sau điều này không rõ ràng nhưng có ý kiến ​​cho rằng những người cho con bú sẽ rụng trứng ít thường xuyên hơn, điều này giúp giữ mức estrogen ổn định.
Giới hạn liều lượng và thời gian điều trị bằng hormone
- Bằng chứng từ hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên về việc sử dụng liệu pháp nội tiết tố mãn kinh ở phụ nữ từ 50 đến 79 tuổi cho thấy rằng dùng kết hợp estrogen và progestin làm tăng nguy cơ ung thư vú5. Nếu bệnh nhân quyết định rằng lợi ích của liệu pháp hormone ngắn hạn lớn hơn nguy cơ, thì nên kê đơn liều thấp nhất phù hợp với họ 5 .
Ung thư vú và chế độ ăn uống
- Chế độ ăn uống lành mạnh giàu rau, trái cây, cá, thịt gia cầm và các sản phẩm từ sữa ít béo có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư vú trong một số nghiên cứu 3 nhưng vẫn chưa rõ liệu các loại rau, trái cây hoặc thực phẩm cụ thể có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh hay không. các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng giảm lượng chất béo đặc biệt ảnh hưởng đến nguy cơ. Tuy nhiên, một chế độ ăn uống lành mạnh có thể giúp duy trì cân nặng hợp lý, một yếu tố quan trọng trong việc ngăn ngừa ung thư vú.
Phát hiện sớm ung thư vú
- Ngoài việc thay đổi lối sống, một hành động quan trọng khác mà phụ nữ có thể làm để giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư vú là tuân theo các hướng dẫn để phát hiện sớm. Chúng bao gồm thực hiện tự kiểm tra thường xuyên, tham khảo ý kiến ​​bác sĩ khi phát hiện ra bất kỳ cục u hoặc thay đổi da bất thường nào và thông báo công khai cho bác sĩ về tiền sử gia đình của tình trạng này.
Các phương pháp điều trị để giảm thiểu rủi ro
- Nguy cơ ung thư vú của một cá nhân được xác định dựa trên việc đánh giá các yếu tố như tuổi tác, tiền sử gia đình và những phát hiện từ khám sức khỏe hoặc xét nghiệm di truyền. Đối với những phụ nữ được phát hiện có nguy cơ cao hơn vì họ có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú mạnh, một đột biến di truyền đã biết của gen BRCA hoặc đã được chứng minh là có những thay đổi tiền ung thư ở vú, một số có sẵn các phương pháp điều trị để giảm nguy cơ này. Hai phương pháp điều trị chính là phẫu thuật cắt bỏ vú (cắt bỏ vú) và dùng thuốc.
Cắt bỏ vú
- Cắt bỏ vú có thể được sử dụng để điều trị ung thư vú đã hình thành cũng như để giảm nguy cơ phát triển bệnh ở những người có nguy cơ cao. Bằng cách loại bỏ càng nhiều mô vú càng tốt, phẫu thuật cắt bỏ vú có thể giảm tới 90% nguy cơ ung thư vú. Một cá nhân thường có thể chọn tái tạo vú trong khi phẫu thuật cắt bỏ vú hoặc vào một ngày sau đó. Nịt vú giả hoặc bộ ngực nhân tạo có thể mặc bên trong áo ngực là một sự thay thế khác.
Thuốc
- Vào tháng 6 năm 2013, Viện Quốc gia về Sức khỏe và Chăm sóc Xuất sắc (NICE) thông báo rằng hai loại thuốc, tamoxifen và raloxifene, sẽ được cung cấp trên Dịch vụ Y tế Quốc gia, có thể được sử dụng để điều trị cho những phụ nữ có nguy cơ phát triển ung thư vú cao hơn. NICE tuyên bố rằng những phương pháp điều trị này có thể giúp ngăn ngừa ung thư vú phát triển ở khoảng 488.000 phụ nữ từ 35 tuổi trở lên.
- Phụ nữ đã qua thời kỳ mãn kinh có thể sử dụng cả hai loại thuốc này nhưng phụ nữ chưa mãn kinh chỉ nên sử dụng tamoxifen. Một đợt điều trị dự phòng bằng một trong hai loại thuốc thường có nghĩa là dùng một viên mỗi ngày trong 5 năm.

Thông tin liên quan