Ảnh hưởng tâm lý vô sinh

Nói chung, thuật ngữ vô sinh dùng để chỉ trường hợp một cặp vợ chồng không thể thụ thai, mặc dù đã quan hệ tình dục thường xuyên, không có biện pháp bảo vệ trong một năm.

- Có nhiều phương pháp điều trị khác nhau để giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn, từ các loại thuốc điều chỉnh sự rụng trứng ( tham khảo tại đây) cho đến các thủ thuật phẫu thuật để điều trị lạc nội mạc tử cung, và hỗ trợ thụ thai, có thể là thụ tinh trong tử cung (IUI) hoặc thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
- Các chuyên gia trước đây cho rằng chỉ có khoảng một nửa trong số tất cả các vấn đề về khả năng sinh sản là có nguồn gốc thực thể, phần còn lại là không giải thích được hoặc do các vấn đề tâm lý ở phụ nữ. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện nay cho thấy rằng phần lớn các trường hợp vô sinh có nguồn gốc thực thể, có thể liên quan đến một bạn tình hoặc cả hai.
- Trong khoảng một phần ba trường hợp, vấn đề nằm ở người đàn ông, một phần ba khác vấn đề nằm ở người phụ nữ, và trong khoảng một phần mười trường hợp, cả hai bạn tình đều có vấn đề về khả năng sinh sản. Trong 10 đến 20% trường hợp, không có nguyên nhân nào gây ra vô sinh có thể được xác định và vấn đề được phân loại là không giải thích được.
- Mặc dù nguyên nhân của vô sinh nói chung là do sinh lý, có thể dẫn đến căng thẳng và đau lòng, thường là do tác động tinh thần của các phương pháp điều trị vô sinh, có thể có tác động tâm lý rất lớn. Một nghiên cứu liên quan đến 200 cặp vợ chồng đến khám tại phòng khám sinh sản cho thấy khoảng 50% phụ nữ và 15% nam giới mô tả vô sinh là trải nghiệm đau khổ nhất trong cuộc đời của họ.
- Một nghiên cứu khác trên 488 phụ nữ đã hoàn thành bảng câu hỏi trước khi tham gia vào sáng kiến ​​giảm căng thẳng, kết luận rằng những phụ nữ hiếm muộn trải qua mức độ trầm cảm và lo lắng tương tự như những người được chẩn đoán mắc bệnh cao huyết áp, ung thư hoặc đang hồi phục sau nhồi máu cơ tim.
- Có ít nghiên cứu hơn về tác động tâm lý đối với nam giới, mặc dù các nghiên cứu cho đến nay đã chỉ ra rằng nam giới có xu hướng báo cáo ít cảm giác đau khổ hơn phụ nữ. Tuy nhiên, một nghiên cứu cho thấy phản ứng của nam giới đối với tình trạng vô sinh có thể phụ thuộc vào việc bạn tình nào được chẩn đoán có vấn đề về khả năng sinh sản. Khi vấn đề thuộc về phụ nữ, đàn ông không cho biết mức độ đau khổ như phụ nữ, nhưng những người đàn ông phát hiện ra mình bị vô sinh cho biết mức độ trầm cảm và lòng tự trọng tương tự như phụ nữ.
- Một số yếu tố góp phần gây ra trầm cảm và lo lắng do vô sinh bao gồm tác dụng phụ của thuốc, lo lắng về tài chính và không chắc chắn về kết quả điều trị. Các phản ứng cảm xúc điển hình bao gồm sốc, trầm cảm, đau buồn, thất vọng, giảm tự tin, tự ti và mất kiểm soát về tương lai.
- Điều này có thể gây bất lợi cho các mối quan hệ, không chỉ với đối tác mà còn với bạn bè và gia đình, những người có thể vô tình gây ra đau khổ bằng cách đưa ra ý kiến ​​và lời khuyên. Một cặp vợ chồng có thể bắt đầu tránh giao lưu với bạn bè hoặc gia đình có con hoặc đang mang thai. Họ cũng có thể bị rối loạn chức năng tình dục do lo lắng và các vấn đề hôn nhân khác.


Tác dụng phụ của thuốc
- Các loại thuốc được sử dụng để điều trị vô sinh có thể gây ra một loạt các tác dụng phụ về tâm lý. Thuốc estrogen clomiphene, thường được kê đơn để thúc đẩy quá trình rụng trứng, có thể khiến giấc ngủ bị gián đoạn, lo lắng, cáu kỉnh và thay đổi tâm trạng. Một số loại thuốc khác có thể dẫn đến hưng cảm, trầm cảm và làm gián đoạn quá trình suy nghĩ.
- Cả bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân có thể khó xác định xem tác dụng phụ là do tâm lý hay do thuốc gây ra, nhưng điều cần thiết là phải xác định nguyên nhân để xác định cách xử lý.

Mối quan tâm về tài chính
- Các phương pháp điều trị vô sinh có thể cực kỳ tốn kém. Tại Hoa Kỳ, chi phí trung bình là khoảng 12.400 đô la cho một chu kỳ IVF và chi phí này không bao gồm thuốc hoặc các 'tiện ích bổ sung' cần thiết. Trong số những cá nhân không có khả năng chi trả các chi phí này hoặc không được bảo hiểm chi trả, việc không được tiếp cận điều trị có thể dẫn đến cảm giác tuyệt vọng và bất lực. Ngay cả những người có bảo hiểm cũng có thể thấy phạm vi bảo hiểm bị hạn chế và họ phải trả một số tiền đáng kể.
Không chắc chắn về kết quả điều trị
- Nói chung, các can thiệp điều trị có hiệu quả trong khoảng một nửa số trường hợp, mặc dù khả năng thành công giảm khi tuổi tác tăng lên. Những bệnh nhân biết rằng việc điều trị đã thành công có thể cảm thấy vui mừng khôn xiết, nhưng cũng có thể cần phải làm quen với những vai trò và áp lực mới mà họ sẽ phải đối mặt. Một số phụ nữ có thể đã từng bị sẩy thai trước đó và cảm thấy lo lắng về việc liệu họ có thể mang thai đủ tháng hay không.
- Nếu việc điều trị không thành công, một cặp vợ chồng có thể ngập tràn đau khổ và đau buồn, đặc biệt là đối với những cá nhân ở các nước phương Tây, nơi quan niệm văn hóa có xu hướng cho rằng làm việc chăm chỉ và bền bỉ luôn dẫn đến thành tựu và thành công. Cũng có thể khó cho các cặp vợ chồng biết khi nào họ nên ngừng điều trị. Thông thường, một đối tác sẽ muốn ngừng điều trị trước khi đối tác kia thực hiện, điều này có thể gây căng thẳng cho mối quan hệ.
- Nhiều bệnh nhân cuối cùng phải đối mặt với việc chuyển đổi từ việc muốn có con đẻ sang chấp nhận rằng điều này không còn có thể thực hiện được nữa.

 

Thông tin liên quan