Huyết áp cao ở trẻ em
Mặc dù mọi người thường cho rằng chỉ những người trung niên hoặc cao tuổi mới phát triển huyết áp cao (tăng huyết áp), nhưng tình trạng này cũng có thể phát sinh ở thanh thiếu niên, trẻ em và thậm chí cả trẻ sơ sinh.
Nguyên nhân
- Tăng huyết áp ở trẻ em thường do một tình trạng sức khỏe tiềm ẩn khác như bệnh tim hoặc bệnh thận gây ra. Do đó, Itis được gọi là tăng huyết áp thứ phát và một khi tình trạng bệnh được giải quyết, huyết áp thường trở lại bình thường. Tăng huyết áp thứ phát cũng có thể do các tình trạng sau:
- Cường giáp
- Rối loạn tuyến thượng thận
- Các vấn đề về giấc ngủ, đặc biệt là chứng ngưng thở khi ngủ
- Hẹp động mạch thận
- Một số loại thuốc có thể làm tăng huyết áp, nhưng một lần nữa, huyết áp thường trở lại bình thường nếu ngừng thuốc.
- Trong một số trường hợp, bác sĩ không thể xác định nguyên nhân gây ra tăng huyết áp, trong trường hợp đó, tình trạng này được gọi là tăng huyết áp nguyên phát hoặc tăng huyết áp cơ bản. Các yếu tố khác nhau được biết là góp phần vào nguy cơ tăng huyết áp nguyên phát bao gồm:
- Thừa cân hoặc béo phì (chỉ số khối cơ thể> 25)
- Tiền sử gia đình bị tăng huyết áp
- Cholesterol và chất béo trung tính cao
- Bệnh tiểu đường loại 2 hoặc tăng lượng đường trong máu lúc đói
Các biến chứng
- Trẻ em bị tăng huyết áp thường bị ngưng thở khi ngủ và thở bất thường trong khi ngủ, đặc biệt nếu trẻ bị thừa cân. Nếu tình trạng tăng huyết áp kéo dài đến tuổi trưởng thành, người bệnh sẽ có nhiều nguy cơ mắc bệnh thận, đột quỵ, đau tim và suy tim.
Kiểm tra và chẩn đoán
- Huyết áp được đo bằng cách sử dụng vòng bít bơm hơi ở cánh tay và máy đo huyết áp. Đo huyết áp được tạo thành từ hai lần đọc. Số đầu tiên (phía trên) là số đo huyết áp tâm thu, là áp suất trong động mạch khi tim đập. Số thứ hai (thấp hơn) là phép đo huyết áp tâm trương, là áp suất trong động mạch giữa các nhịp tim.
- Một lần đo huyết áp không đủ để chẩn đoán tăng huyết áp. Để được chẩn đoán, trẻ cần phải có chỉ số bất thường trong ít nhất ba lần đến gặp bác sĩ và trong quá trình thăm khám, kết quả đo có thể được thực hiện nhiều lần để đảm bảo chính xác.
- Huyết áp được coi là “bình thường” là tương đối và phụ thuộc vào giới tính, tuổi và chiều cao của trẻ. Nếu được chẩn đoán tăng huyết áp, trẻ sẽ được kiểm tra khoảng sáu tháng một lần. Bác sĩ cũng có thể thực hiện các xét nghiệm sau để kiểm tra các tình trạng cơ bản khác có thể gây ra sự cố:
- Siêu âm tim để kiểm tra lưu lượng máu qua tim
- Siêu âm để đánh giá thận
- Xét nghiệm máu để kiểm tra số lượng tế bào máu, đường huyết và chức năng của thận
- Phân tích nước tiểu
Sự đối đãi
- Tăng huyết áp ở trẻ em thường được quản lý bằng cách thay đổi lối sống như tập thể dục thường xuyên, ăn uống theo chế độ tốt cho tim mạch và duy trì cân nặng hợp lý. Nếu chỉ các biện pháp này không đủ để giải quyết vấn đề, các loại thuốc sau đây có thể được kê đơn:
- Thuốc lợi tiểu: Những thuốc này hoạt động trên thận để loại bỏ natri và nước, làm giảm huyết áp
- Thuốc chẹn beta: Những thuốc này làm giảm khối lượng công việc mà tim phải làm để bơm máu đi khắp cơ thể, do đó làm giảm tốc độ và lực đập của tim.
- Thuốc ức chế men chuyển (ACE): Những chất này làm giãn mạch máu bằng cách ngăn chặn sự hình thành của một chất hóa học làm thu hẹp mạch, do đó cải thiện lưu lượng máu và giảm huyết áp
- Thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II: Cơ chế ở đây giống như đối với thuốc ức chế men chuyển
- Thuốc chẹn kênh canxi: Những loại thuốc này giúp thư giãn cơ mạch máu và làm chậm nhịp tim.